Lsng Tran Ho Full
Phần 1: Bối cảnh lịch sử:I. Trong nước:- Từ khoảng giữa thế kỷ XII nhà Lý bắt đầu suy vong và đầu năm 1226 phải nhường chỗ cho nhà Trần.- Triều Trần được thành lập, kỷ cương trong nước được khôi phục, thế nước lại hưng thịnh. Chế độ trung ương tập quyền được tăng cường về mọi mặt. Nhà Trần chú trọng khai hoang, xây dựng các công trình thủy lợi, phát triển kinh tế. Do đó, không những củng cố thêm cơ sở vật chất mà còn nâng cao đời sống nhân dân và tăng thêm tiềm lực quốc phòng cho đất nước.- Từ nửa cuối TK 14, nhà Trần suy yếu, việc nước việc dân đều sai lầm. Nhân dân cực khổ, bất bình. Đến TK15, nhà Hồ thay nhà Trần cầm quyền trị nước, nhưng cũng không cứu vãn được tình thế.II. Nước ngoài:- Nước Tống đang trên đà suy sụp, phải chuyển xuống phía Nam, gọi là nhà Nam Tống. Sự tồn tại của Nam Tống bị các thế lực bên ngoài và nhất là Mông Cổ luôn luôn đe dọa.- Mông Cổ đã trở thành một đế quốc hùng mạnh bao gồm vùng lãnh thổ rộng lớn từ Á sang Âu. Các chúa Mông Cổ liên tiếp gây chiến tranh xâm lược khắp nơi.- Từ nửa cuối TK14, ở phương Bắc, nhà Nguyên sụp đổ, nhà Minh lên thay.Phần 2: Quan hệ ngoại giao Việt – TrungI. Chính sách ngoại giao của Đại Việt với Trung Quốc1. Với Nam Tống:- Do đã suy yếu và nền độc lập có nguy cơ bị mất, nhà Nam Tống phải xử nhũn trong quan hệ với nước ta, cốt giữ yên mặt Nam để đối phó với kẻ thù ở phía Bắc. Vì thế, vua Trần Thái Tông liền bỏ lệ cầu phong với Nam Tống. Đó là thắng lợi ngoại giao đầu tiên của triều Trần với phong kiến phương Bắc.(LƯU Ý: Lệ cầu phong (cầu: cầu xin; phong: ban cho, phong cho chức tước). Đây là một nét truyền thống ngoại giao giữa nước Việt ta và Trung Quốc từ thời phong kiến, theo đó khi có một vị vua mới lên ngôi, nước ta phải cử một sứ bộ sang Trung Quốc để xin phong vương. Sau đó, sứ đoàn Trung Quốc sẽ mang sắc thư và quốc ấn sang phong vương.)- Nhưng nhà Nam Tống cố duy trì quan hệ hòa hiếu láng giềng và cũng muốn tỏ ra uy thếcủa “thiên triều” nên tự ý của sứ sang phong vương cho các vua Trần. Đổi lại, nhà Trần chỉcử sứ sang thăm.- Năm 1257, Mông Cổ bắt đầu đánh Nam Tống, đồng thời xâm lược Đại Việt. Đứng trước kẻthù chung, hai nước đã giúp đỡ nhau. Sau khi Nam Tống bị diệt, các tướng lĩnh, binh sĩ Tống chạy sang ta đều được nhà Trần thu nạp và cùng quân ta chiến đấu chống Mông Cổ.2. Với Mông Cổ:- Đường lối ngoại giao của nhà Trần là kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và quốc thể. Suốt 30 năm nhà Trần không hề nhân nhượng trước các yêu sách láo xược của nhà Nguyên.- Nhưng đối với một kẻ địch mạnh, hung hãn, cái tài ngoại giao thời Trần là lợi dụng lúc địch gặp khó khăn, lúng túng, vận dụng sách lược ngoại giao rất uyển chuyển, linh hoạt, “khi cương, khi nhu”.- Ngoại giao thời Trần trong giai đoạn sau chiến tranh rất linh hoạt. Tùy tình hình và mức độ suy yếu của địch, cách giải quyết mỗi lần một khác. Khi thì hạn chế cơn lồng lộn của địch bằng những hành động nhân nhượng, có lúc lại tiến công ngoại giao tiếp theo thắng lợi quân sự làm cho ý chí xâm lược của địch vốn đã lung lay đi đến chỗ hoàn toàn tan rã như thời kỳ sau kháng chiến lần thứ ba.3. Với nhà Minh:- Các triều vua cuối Trần và đầu nhà Hồ vẫn kiên quyết chống lại, nhưng cách đối phó lại mềm mỏng, có khi phải nhượng bộ.II. Chính sách ngoại giao của Trung Quốc với nước ta:1. Chính sách của Nam Tống:- Do đã suy yếu và nền độc lập có nguy cơ bị mất, nhà Nam Tống phải xử nhũn trong quan hệ với nước ta, cốt giữ yên mặt Nam để đối phó với kẻ thù ở phía Bắc.- Nhưng nhà Nam Tống cố duy trì quan hệ hòa hiếu láng giềng và cũng muốn tỏ ra uy thếcủa “thiên triều” nên tự ý của sứ sang phong vương cho các vua Trần.2. Chính sách của Mông Cổ:- Đế quốc Mông Cổ luôn luôn rắp tâm đánh chiếm Đại Việt để làm bàn đạp thuận lợi tiến tới đánh chiếm Đông Nam Á, vì thế nên nhà Nguyên luôn làm ngơ trước những hành động ngoại giao của ta và thậm chí còn đưa ra nhiều yêu sách ngang ngược hơn.- Các chúa Mông Cổ thường xuyên sai sứ sang đe dọa, dụ vua Trần đầu hàng và đòi sang chầu. Họ tưởng rằng vì sợ sức mạnh của Mông Cổ, vua Trần sẽ phải khuất phục và dùng đe dọa cũng có thể thôn tính được nước ta.- Trong thời gian tạm hòa hoãn giữa hai cuộc chiến tranh, Mông Cổ thường xuyên có các yêu sách đối với Đại Việt:+ Vua Trần phải sang chầu, cho con em sang làm con tin.+ Kê khai số dân, chịu quân dịch, cống nạp.+ Phải theo nghi lễ của Mông Cổ khi nhận chiếu chỉ và tiếp sứ.+ Phải để cho Mông Cổ đặt đạt-lỗ-hoa-xích. (giải thích????)3. Chính sách của nhà Minh:- Sau khi củng cố nền thống trị trong nước, nhà Minh muốn phục hồi uy quyền của “thiên triều” đối với các phiên bang, “thu phục cả thiên hạ” dưới quyền bá chủ của mình. Đối với nước ta, nhà Minh đã tiến hành nhiều thủ đoạn nham hiểm, khiêu khích nhằm tạo cớ để xâm lược, như dụ dỗ, uy hiếp, dò la tình hình, nhiều lần phái sứ giả sang đòi nước ta phải cung cấp lương thực, cống nạp các hạng người và đề ra những yêu sách về đất đai vùng biên giới.- Nhà Minh tuy đã công nhận triều đình nhà Hồ, nhưng luôn lấy cớ Hồ Quý Ly “phạm tội” giết vua cướp ngôi để can thiệp vào nội tình nước ta, khích động quan lại cũ của nhà Trần chống lại nhà Hồ và gây mất đoàn kết trong nhân dân.III. Diễn biến hòa bình1. Giữa Đại Việt và Mông Cổ:- Năm 1257, trước khi quân Mông Cổ tiến đánh nước ta, chúa Mông Cổ đã 5 lần sai sứ mang thư và chiếu thư sang dụ vua Trần đầu hàng, đòi vua sang chầu, đe dọa xâm lược nước ta. Tuy nhiên, vua Trần Thái Tông kiên quyết bác bỏ các yêu sách của Mông Cổ, thậm chí còn ra lệnh tống giam các sứ Mông Cổ.- Đầu năm 1258, quân Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Ngô-lương-hợp-thai tiến sang nước ta. - Ngày 29 tháng 1 năm 1258, quân ta đã phản công địch, quét sạch quân Mông Cổ ra khỏi đất nước.- Cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ nhất đã kết thúc thắng lợi. Đây không chỉlà một thắng lợi quân sự to lớn làm thất bại mưu đồ của địch, mà cũng là thắng lợi của đường lối ngoại giao kiên quyết và cứng rắn bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc.- Quân xâm lược Mông Cổ tuy thất bại nhưng âm mưu đen tối của chúng vẫn chưa bị dập tắt. Vừa chạy thoát được về Vân Nam, Ngột-lương-hợp-thai lại cử sứ giả sang dụ vua Trần đầu hàng.- Nhìn thấy kinh thành bị tàn phá, càng căm phẫn trước hành động trơ trẽn của kẻ địch, vua Trần Thái Tông ra lệnh trói sứ giả lại và đuổi về. Nhưng nhà Trần thấy rằng, trước sau thếnào quân Mông Cổ cũng lại sang. Cần phải có thời gian khắc phục hậu quả chiến tranh và tiếp tục lực lượng để đối phó với cuộc xâm lược mới của kẻ địch. Do đó, một mặt nhà Trần vẫn tiếp tục đường lối ngoại giao kiên quyết, mặt khác, vận dụng một sách lược khôn khéo, vừa cương, vừa nhu rất linh hoạt:+ Ngay sau chiến thắng, nhà Trần cử một sứ bộ sang Mông Cổ. Lê Phụ Trần, vị tướng vừa đánh bại quân Mông Cổ được cử đi làm chánh sứ. Việc cử Lê Phụ Trần đi sứ có ý nhắc nhở chúa Mông Cổ chớ quên thất bại vừa qua, và nếu tiến hành một cuộc xâm lược mới thì cũng sẽ bị quân ta đánh bại. Nhưng nhiệm vụ chính của Lê Phụ Trần là phát huy thế thắng của ta, tìm cách hòa giải với địch, tìm hiểu tình hình quân sự và chính trị của Mông Cổ.+ Về phía Mông Cổ, trước mắt, chưa thể tính đến một cuộc đụng độ mới với nước ta vì vừa bị thất bại nặng. Mông Cổ còn đang dồn sức để diệt Nam Tống. Tình hình đó đã buộc Mông Cổ phải tạm hòa hoãn với nước ta.+ Lê Phụ Trần đã giành được thắng lợi ngoại giao bước đầu: sứ thần ta và Mông-ke đã thỏa thuận định lệ cống 3 năm một lần.- Tháng 8/1259, tình hình nội bộ của Mông Cổ trở nên phức tạp,vì vậy Mông Cổ phải tạm đình kế hoạch thôn tính Nam Tống và nhân nhượng hơn với Đại Việt. Một thời kỳ tạm hòa hoãn với Mông Cổ đã thành hiện thực và được duy trì khoảng 25 năm. Tuy nhiên, trong 25 năm đó, đấu tranh ngoại giao của nhà Trần rất gay go và phức tạp. Âm mưu nhất quán của kẻ thù là thôn tính bằng được nước ta, cho nên quan hệ bang giao có lúc rất căng thẳng. Trong thời kỳ này, đấu tranh ngoại giao chủ yếu của ta là chống lại các yêu sách của Mông Cổ.- Sau khi cuộc nội chiến ở Mông Cổ kết thúc, Hốt Tất Liệt đã thâu tóm được quyền lực. Hắn xuống chiếu đòi thực hiện 6 yêu sách và nói rõ “đạt-lỗ-hoa-xích để thống trị”. Đó là một hành động lấn tới cố gây tình hình căng thẳng, chuẩn bị cho sự xâm lược.- Năm 1272, sứ Nguyên U-ry-ang sang hỏi cột đồng Mã Viện nhằm dò xét địa thế nước ta để chuẩn bị đường tiến quân. Nhà Trần quyết không nhân nhượng, vì đó là hành động chà đạp chủ quyền của nước ta. Đối phó lại, vua Trần sai Lê Kính Phụ đi cùng để “hội khám”. Nhưng ta chỉ đưa sứ Nguyên đi một vài nơi không quan trọng và sau đó trả lời rằng “cột đồng Mã Viện dựng đã lâu ngày, nay đã mai một, không còn dấu vết.” (giải thích cột đồng Mã Viện?) – Đầu năm 1279, Sài Thung đem quân đến sát biên giới nước ta, đòi cử người ra đón. Nhà Trần đành nhân nhượng và cử Đỗ Quốc Kế lên đón với mục đích giám sát hành động của sứ Nguyên. Quan hệ giữa hai nước trở nên hết sức căng thẳng.- 25 năm đấu tranh ngoại giao của nhà Trần là một thời kỳ nhân nhượng của dân tộc ta. Và khi đã đến mức không chịu đựng được nữa, nhân dân ta chỉ còn một cách là đứng lên tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Tuy vậy, còn một ngày chưa nổ ra chiến tranh, nhà Trần vẫn dùng biện pháp ngoại giao để tranh thủ hoàn bị công tác chuẩn bị chiến đấu.- Tháng 7 năm 1284, trung đại phu Trần Khiêm Phủ được cử sang tỉnh Kinh Hồ xin hoãn binh.- Tháng 8 năm 1284, Trần Đức Quân và Trần Tự Tông được phái sang từ chối việc mượn đường.- Tháng 11 năm 1284, được tin Thoát Hoan mang quân đến Lộc Châu, vua Trần vẫn cử Nguyễn Đức Dư và Nguyễn Văn Hàn đến gặp Thoát Hoan, nhưng với thái độ cương quyết yêu cầu lui quân.- Để lãnh đạo cuộc kháng chiến, nhà Trần cử Trần Quốc Tuấn làm quốc công tiết chế. Ông đã viêt Hịch tướng sĩ động viên toàn quân quyết tâm đánh giặc cứu nước.- Ngày 17/2/1285, vua Trần sai Đỗ Khắc Chung sang doanh trại quân Nguyên vờ cầu hòa để tìm hiểu thêm tình hình bố trí lực lượng của địch và tác động vào tinh thần của tướng giặc Mông Cổ.- Cuộc xâm lược lần hai của Nguyên – Mông đã thất bại, nhưng Hốt Tất Liệt vẫn chưa chịu từ bỏ ý đồ xâm lược.- Tháng 2/1286, nhà Trần chủ động thả tù binh. Năm vạn tù binh đều bị khắc chữ lên mặt để cảnh cao.- Hốt Tất Liệt phong Trần Ích Tắc làm An Nam quốc vương, tuy nhiên bề ngoài vẫn tỏ vẻ hòa hảo cốt làm ta mất cảnh giác.- Ngày 11/10/1287, quân Nguyên bắt đầu xuất phát, mở màn cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ 3.- Để làm địch mất cảnh giác và tiêu tan tinh thần chiến đấu, Hưng Ninh Vương Trần Trung được lệnh tìm cách liên lạc với giặc giả vờ xin hàng, vừa dò xét tình hình địch phục vụ cho kế hoạch phản công bất ngờ.- Ngày 28/4/1288, thượng hoàng Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông và triều đình trở về kinh đô, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ ba. - Hậu quả của thất bại ở Đại Việt mở đầu thời kỳ suy vong của đế quốc Mông Cổ và kế hoạch bành trướng xuống phía Nam không thực hiện được. Trong tình hình khó khăn về nhiều mặt, Hốt Tất Liệt buộc phải dùng biện pháp ngoại giao hòng khuất phục Đại Việt, đồng thời tìm mọi cơ hội thuận tiện để gây lại cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.- Nhà Trần tuy đã đánh bại được quân xâm lược, nhưng Nguyên – Mông là một kẻ địch rất ngoan cố chưa chịu từ bỏ ý đồ thôn tính nước ta, vì thế nên vận dụng sách lược mềm mỏng trong đấu tranh ngoại giao.- Sau khi chiến thắng, nhà Trần cử Trần Khắc Dụng và Nguyễn Mạnh Thông đi sứ mang tờ biểu của vua Trần gửi Hốt Tất Liệt. Tờ biểu không đả kích thẳng vua Nguyên là thủ phạm chính gây ra chiến tranh cốt xoa dịu và gỡ thể diện cho hắn, nhưng vẫn tố cáo tội ác của giặc và đổ tội cho bọn quan lại cấp dưới và việc giải quyết vấn đề tù binh. Tuy vậy, nhà Trần đã không thả hai viên dũng tướng của nhà Nguyên là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp.- Sau đó, giữa sứ nhà Nguyên và nhà Trần diễn ra đấu tranh ngoại giao quyết liệt. Hai bên đã gửi qua lại bốn lần thư, cả bốn lần vua Trần đều tỏ rõ thái độ không chịu nhượng bộ trước những yêu sách của sứ Nguyên.- Từ đó đến lúc nhà Nguyên bị tiêu diệt, Mông Cổ không còn dám nghĩ đến việc gây chiến tranh với nước ta nữa.2. Giữa nhà Hồ và nhà Minh:- Từ nửa cuối TK 14, nhà Trần suy yếu, việc nước việc dân đều sai lầm. Nhân dân cực khổ, bất bình. Đến TK15, nhà Hồ thay nhà Trần cầm quyền trị nước, nhưng cũng không cứu vãn được tình thế. Cũng từ nửa cuối TK14, ở phương Bắc, nhà Nguyên sụp đổ, nhà Minh lên thay.- Năm 1405, trước yêu sách đòi đất của nhà Minh, Hồ Quý Ly sai Hoàng Hối Khanh làm Cát địa sứ cắt đất vùng biên giới gồm 59 thôn châu Lộc ở Lạng Sơn cho nhà Minh. Hành động này của nhà Hồ đã làm tổn hại đến chủ quyền lãnh thổ nước ta.- Năm 1406, nhà Minh phái một đạo quân 10 vạn người hộ tống Trần Thiêm Bình – một người tự xưng là con cháu vua Trần, về nước và buộc nhà Hồ phải nhường ngôi cho y. Nhưng nhà Hồ đã kiên quyết đối phó, đánh tan đội quân hộ tống của nhà Minh và bắt Trần Thiêm Bình đem về kinh xử lăng trì.- Nhà Hồ cử một phái bộ sang nhà Minh để biện bạch về sự gian trá, giả mạo của Trần Thiêm Bình. Nhưng nhà Minh đã bắt giam sứ bộ và ra lệnh điều quân xâm lược nước ta.- Để che đậy hành động xâm lược của mình và cô lập về chính trị triều nhà Hồ với nhân dân nước ta, đồng thời khích động quan lại cũ của nhà Trần chống lại nhà Hồ, nhà Minh cho viết bảng văn kể tội của họ Hồ và phao tin: tìm con cháu nhà Trần cho phục lại chức vương.- Chỉ sau 6 tháng chống cự, nhà Hồ đã bị đánh bại, và dân tộc ta lại phải sống dưới ách thống trị của ngoại bang.IV. Đánh giá kết quả1. Thời kỳ ngoại giao với Nam Tống:- Đại Việt ta đã xây dựng được mối quan hệ khá tốt đẹp.+ Ở thời bình, nhà Trần đã có thắng lợi ngoại giao đầu tiên là bỏ được lệ cầu phong, khẳng định quyền tự chủ, tự quyết của dân tộc ta+ Ở thời chiến: Đại Việt cùng hợp sức với Nam Tống chống lại kẻ thù chung là Mông Cổ, càng khiến mối quan hệ thêm khăng khít.2. Thời kỳ ngoại giao với Mông Cổ:- Nhờ chính sách đúng đắn, quyết liệt, được sự đồng tâm hợp lực của toàn bộ quan lại trong triều cũng như nhân dân cả nước, Đại Việt ta đã giữ vững được chủ quyền quốc gia trước một thế lực hùng mạnh bậc nhất thế giới lúc bấy giờ, ngăn chặn được âm mưu tiêu diệt Đại Việt và xâm chiếm cả một vùng Đông Nam Á rộng lớn- Tuy không có được mối quan hệ hòa hảo như với Nam Tống nhưng bang giao của Đại Việt với Mông Cổ vẫn có thể được coi là một thành công của nhà Trần.- Tuy vậy, đây mới chỉ là thành công bước đầu, chưa phải là sự chiến thắng hoàn toàn vì chúng ta chưa dập tắt hẳn âm mưu và tham vọng của chúng. Quả thật, vào nửa cuối thế kỷXIII, quân Mông Cổ đã quay lại xâm lược nước ta thêm hai lần nữa. Trong hai lần đó, nhờnhững quyết sách hợp lý cùng sự đồng tâm hiệp lực của toàn thể nhân dân, chúng ta đã thành công trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng như phá tan âm mưu xâm lược của đế quốc tàn bạo, hiếu chiến này.3. Thời kỳ ngoại giao với nhà Minh: (chưa tìm được)Phần 2: Quan hệ Đại Việt với các nước Đông Nam ÁI. Quan hệ Đại Việt với Chiêm Thành- Có thể nói trong các triều đại Việt Nam, Chiêm Thành không lúc nào không quấy phá và cuộc chiến tranh giữa hai nước vẫn thường xuyên xảy ra. - Lúc nhà Trần lên ngôi, nước Chiêm Thành vẫn giữ lệ triều cống và giao hòa, nhưng cũng còn cho quân sang cướp phá và đòi lại đất cũ. Năm 1252, vua Trần Thánh Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành và bắt được rất nhiều tù binh. Quan hệ hai nước trở lại bình thường trước sự bành trướng của giặc Nguyên – Mông.- Đến đời vua Trần Anh Tông, lúc bấy giờ Trần Nhân Tông đã lên làm thái thượng hoàng và trong lúc sang thăm vãn cảnh nước Chiêm và để cho tình giao hảo của hai nước trở nên bền vững hơn, nhà Trần đã gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân năm 1306. Chế Mân dâng châu Ô và châu Rí cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tông đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai trị cũng như cho di dân sang ở. - Vào cuối triều Trần, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga nhiều lần cho quân đánh phá nước Đại Việt. Năm 1377 vua Trần Duệ Tông đem quân vào đánh Chiêm Thành, bị tử trận. Nhân cơ hội đó Chế Bồng Nga liên tục đánh ra phía bắc và có lần đã tiến tới kinh thành Thăng Long.- Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh. Tướng trẻ Trần Khát Chân được lệnh đem binh dàn trận ở sông Hải Triều (sông Luộc ở vùng Hưng Yên ngày nay). Nhờ có hàng tướng bên Chiêm sang chỉ chỗ, Khát Chân sai chĩa hỏa pháo nhằm cả vào thuyền Chế Bồng Nga mà bắn. Vua Chiêm trúng đạn tử trận, quân Chiêm bỏ chạy và sau đó con của Chế Bồng Nga hàng phục Đại Việt. Kể từ đó trong thời gian dài Chiêm Thành không dám đánh Đại Việt nữa.- Vào thời nhà Hồ, quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành vẫn là quan hệ giữa nước lớn và nước nhỏ. Trong suốt thời kỳ đầu, nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã mở mang được lãnh thổ tới tận tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Năm 1402, Hồ Quý Ly cho quân sang đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm dâng đất Chiêm Động để xin bãi binh. Quý Ly lại bắt dâng đất Cổ Lũy rồi phân đất ấy ra làm bốn châu Thăng, châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa và đặt quan An phủ sứ để cai trị các châu.II. Quan hệ Đại Việt với Ai Lao- Vào đời nhà Trần, đứng trước nguy cơ xâm lược của giặc Nguyên – Mông, liên minh Đại Việt – Ai Lao được củng cố nhằm thiết lập hệ thống phòng thủ phía Tây và Tây Bắc nước ta.- Sau khi nhà Trần chiến thắng quân Nguyên - Mông, Ai Lao thường sang quấy phá cướp bóc ở vùng Nghệ An và Thanh Hóa. Vì thế triều đình đã phải sai quân lính đi đánh dẹp mãi và chính các vị vua phải thân chinh đi dẹp giặc, trong đó nhiều nhất phải kể đến vua Trần Nhân Tông. Mỗi lần bị thua thì quân Ai Lao rút về, nhưng sau đó thì lại sang quấy phá. Trong đời vua Trần Anh Tông, ông cũng nhiều lần thân chinh đi dẹp giặc nhưng ông cũng đã ra lệnh cho Phạm Ngũ Lão hơn ba, bốn phen đi dẹp giặc. Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen thân chinh đi dẹp giặc. - Tuy vậy, trong triều đại nhà Trần, mục đích của Đại Việt là dẹp các cuộc đánh phá và quấy nhiễu của quân Ai Lao chứ không có mục đích đánh chiếm lấy đất nước này.Phần 3: Bài học kinh nghiệmI. Không khoan nhượng và kiên trì đấu tranh cho các mục tiêu cơ bản của dân tộc- Nhà Trần tuy biết Nguyên – Mông là một đế quốc hùng mạnh nhưng không hề chịu khuất phục. Các yêu sách của nhà Nguyên đều bị các vua Trần bác bỏ. Sứ giả sang hống hách thì bị trừng trị. Cuộc đấu tranh ngoại giao trong 25 năm diễn ra gay go, phức tạp. Cho đến khi chiến tranh xâm lược Nguyên – Mông lần thứ 3 bị đánh bại, nhà Trần vẫn phải tiếp tục đấu tranh ngoại giao kiên trì mới đè bẹp được ý chí xâm lược của địch.- Tuy nhiên, đối tượng đấu tranh của ta là nước phong kiến lớn, nên muốn thắng lợi, không chỉ có “cương”, mà còn phải có sách lược khôn khéo, mềm dẻo. Do đó hai mặt “cương” và “nhu” đi liền với nhau. Nhất là sau khi thua trận, do muốn gỡ thể diện, phong kiến Trung Quốc thường gây lại chiến tranh để phục thù. Sách lược “nhu” về ngoại giao có tác dụng vớt vát thể diện của “thiên triều”, ngăn chặn âm mưu phục thù và tiến tới đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của địch.II. Giương cao ngọn cờ chính nghĩa- Trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào, mỗi bên đều tìm mọi cách giành lấy lẽ phải về mình. Phong kiến phương Bắc chính là kẻ xâm lược nhưng không dám để lộ bộ mặt thật của chúng mà lấy cớ này cớ khác để ngụy trang cho hành động cướp nước ta.- Về phía ta, là người bị xâm lược, cuộc chiến tranh của dân tộc ta tiến hành là cuộc chiến tranh giữ nước, chiến tranh chính nghĩa. Nhưng nếu người lãnh đạo không làm rõ tính chất đó cho nhân dân cả nước, phát huy yếu tố chính nghĩa và vạch trần các luận điệu lừa bịp của địch thì chưa dễ thu hút được các tầng lớp nhân dân đứng dưới lá cờ cứu nước.- Đào Tử Kỳ, một sứ giả của vua Trần đã từng nói: “Sự trực vi tráng, khúc vi lão”, nghĩa là trong chiến tranh “lý thẳng thì thắng, lý cong thì thua, không phải lấy lẽ yếu, mạnh mà bàn được.”III. Giành thắng lợi từng bước trong đấu tranh ngoại giao- Điều này xuất phát từ đặc điểm nước ta là một nước nhỏ, đất không rộng, người không đông mà phải đương đầu với kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp bội. Vì thế, trên cơ sở thắng lợi đã giành được bằng quân sự và ngoại giao, đấu tranh ngoại giao vẫn tiếp tục nhằm đè bẹp ý chí xâm lược và đòi lại toàn bộ lãnh thổ địch còn chiếm giữ. Đấu tranh ngoại giao của nhà Trần trong 35 năm đã đẩy lùi từng bước những hành động ngang ngược và ba lần đánh tan cuộc xâm lược của Nguyên – Mông mới buộc được chúng bãi binh.IV. Nắm vững tình hình địch, triệt để lợi dụng và khai thác sự bất đồng và những khó khăn trong nội bộ kẻ thùV. Sự kết hợp giữa tiến công quân sự với hòa đàm thương lượng
Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.biz