ZingTruyen.biz

Liêu Trai Chí Dị ( Full )

Chương 66+67+68

NTPTNPKT1908

CHƯƠNG 66: SAN HÔ

Câu Đăng Khóa Tích Ý Toan Tân
Lao Oán Tương Vong Hiếu Thủy Chân
Thi Khán Vu Điền Hiều Khấp Tử
Chỉ Tương Cao Hậu Cách Ngoan Ngân

Dịch:

Trước Đèn Dạy, Dệt Xiết Chua Cay
Mệt, Oán Đều Quên Chí Hiếu Thay
Cày Ruộng Kìa Ai Gào Khóc Nhỉ?
Rồi Ra Cảm Cách Thấy Cao Đầy

An Đại Thành là người huyện Trùng Khánh (tỉnh Tứ Xuyên), cha đỗ Cử nhân nhưng mất sớm, em là Nhị Thành còn nhỏ. Sinh cưới Trần thị, tiểu tự là San Hô, nhưng mẹ sinh họ Thẩm tính tình hung dữ, đối xử tàn tệ, có khi ngược đãi mà San Hô không tỏ ra hờn oán, cứ sáng ra là trang điểm tới hầu. Gặp lúc sinh bị bệnh, mẹ cho rằng nàng trang điểm để mê hoặc sinh bèn chửi mắng. San Hô lui về, tháo bỏ trang sức, rửa hết phấn son rồi tới, mẹ tức giận, đập đầu vào tường gào thét. Sinh vốn có hiếu bèn đánh vợ, mẹ mới hơi nguôi giận, từ đó càng ghét con dâu, tuy nàng chăm chỉ hầu hạ vẫn không thèm nói với nàng một câu. Sinh biết mẹ giận cũng ngủ riêng, tỏ ý dứt tình với vợ.

Lâu ngày mẹ vẫn không hả dạ, cứ chửi chó mắng mèo để nói cạnh San Hô. Sinh nói:

- Cưới vợ là để hầu hạ cha mẹ, nay đã như thế thì có vợ làm gì?

Bèn thôi vợ, sai bà vú già đưa San Hô về. Vừa ra tới cổng làng, San Hô khóc nói:

- Là đàn bà mà không làm vợ người ta được, về nhà còn mặt mũi nào nhìn thấy cha mẹ, chẳng bằng chết đi cho xong.

Rồi rút kéo may trong tay áo ra đâm vào cổ họng, mọi người xúm lại cứu thì máu đã ướt đẫm áo quần, bèn dìu về nhà người thím trong họ. Bà thím sinh là Vương thị, góa chồng ở một mình bèn giữ nàng lại ở đó. Bà vú trở về, sinh dặn giấu kín chuyện nhưng trong lòng vẫn thầm sợ mẹ biết. Qua vài hôm nghe ngóng biết vết thương của San Hô đã hơi lành, bèn tới nhà Vương thị bảo đừng giữ San Hô ở đó. Vương thị gọi vào, sinh không chịu vào, chỉ hung hăng đòi đuổi San Hô. Không bao lâu nàng ra gặp sinh, hỏi:

- San Hô có tội gì?

Sinh trách là không hầu hạ được mẹ. San Hô im lặng không nói câu nào, chỉ cúi đầu khóc nức nở, lệ đỏ như máu ướt đẫm vạt áo, sinh động lòng thương xót không sao nói nữa liền trở về.

Qua mấy hôm mẹ sinh biết chuyện, giận dữ tới nhà Vương lớn tiếng chửi mắng. Vương cũng ngạo nghễ không chịu lép, kể tội lại mẹ sinh ngược đãi San Hô, lại nói:

- Nàng ta đã bị đuổi, thì còn là người gì của nhà họ An nữa? Ta đây giữ con gái nhà họ Trần chứ không giữ con dâu nhà họ An, ai cần bà chõ mồm vào việc nhà người khác?

Mẹ sinh tức lắm nhưng đuối lý, lại thấy Vương thị có vẻ hung dữ bèn xấu hổ gào khóc quay về. San Hô áy náy, nghĩ tới việc qua ở nơi khác. Nguyên dì sinh là bà Vu, tức chị bà Thẩm, hơn sáu mươi tuổi thì con trai chết, chỉ còn một đứa cháu nội và con dâu góa, rất yêu mến San Hô, nàng bèn từ giã Vương thị tới đó ở. Bà Vu hỏi biết duyên cớ, rất chê em gái hung dữ mê muội, muốn đưa nàng về ngay. San Hô hết sức nói là không được, lại xin đừng nói lộ ra. Rồi đó nàng ở cùng với bà Vu như mẹ chồng nàng dâu. San Hô có hai người anh nghe chuyện rất thương em, muốn đón nàng về gả chồng cho, nhưng San Hô nhất định không chịu, chỉ theo bà Vu kéo sợi dệt mướn sinh nhai.

Sinh sau khi bỏ vợ thì mẹ tìm đủ mọi cách cưới vợ cho, nhưng tiếng hung dữ đã lan rộng ra nên gần xa không ai muốn kết thông gia. Được ba bốn năm, Nhị Thành dần lớn lên, bèn hỏi vợ trước cho. Vợ Nhị Thành là Tàng Cô, hung dữ còn quá mẹ sinh, mẹ mà có vẻ nổi nóng thì Tàng Cô dằn giọng đối đáp, Nhị Thành lại nhu nhược không dám bênh vực ai, vì thế mẹ cũng không dám ra oai nữa, đã không dám bới móc lại trở lại tìm cách lấy lòng nhưng Tàng Cô vẫn không ưng ý. Tàng Cô sai khiến mẹ chồng như đầy tớ, sinh không dám nói gì, chỉ cố sức làm lụng thay mẹ, làm hết những việc rửa chén quét nhà, mẹ con thường những lúc không có ai cứ nhìn nhau khóc lóc. Không bao lâu mẹ uất ức sinh bệnh nằm liệt giường, những việc trở mình đi đồng đều nhờ sinh giúp, sinh suốt đêm không được ngủ, hai mắt đỏ ngầu.

Gọi em tới giúp, Nhị Thành vừa vào phòng thì Tàng Cô đã gọi đi mất. Sinh vì vậy tới kể với bà Vu, định nhờ bà tới trông nom mẹ mình, vào tới cửa thì vừa khóc vừa kể, kể chưa xong thì San Hô sau màn bước ra, sinh hổ thẹn quá im bặt định ra về. San Hô lấy hai tay khép cổng, sinh quýnh quáng xô nàng ra cướp đường chạy về, cũng không dám kể với mẹ. Không bao lâu bà Vu tới, mẹ sinh mừng rỡ giữ lại. Từ đó nhà bà Vu ngày nào cũng sai người đưa thức ăn ngon tới cho, bà nhắn con dâu rằng:

- Ta ở đây không đói, đừng gởi thức ăn thế nữa.

Nhưng ở nhà cứ đều đặn gởi tới. Bà Vu không nếm qua một miếng, cứ dành lại cho người bệnh ăn, bệnh mẹ sinh cũng đỡ dần. Cháu nội bà Vu lại vâng lệnh mẹ đem thức ăn tới cho bà và hỏi thăm sức khỏe mẹ sinh, mẹ sinh than:

- Nàng dâu ngoan thật, chị tu mấy kiếp mà được như thế?

Bà Vu hỏi:

- Có bằng nàng dâu em đuổi không?

Bà Thẩm nói:

- Ôi! Nói ra không hết chuyện, nhưng làm sao mà được như vợ thằng cháu bên nhà!

Bà Vu nói:

- Nàng dâu còn thì em không biết vất vả, em nóng giận thì nàng dâu không biết oán trách, có chỗ nào không bằng dâu chị?

Bà Thẩm rơi lệ tỏ ý hối hận, lại hỏi:

- San Hô lấy chồng khác chưa?

Bà Vu đáp:

- Không biết, để hỏi lại sau!

Mấy hôm sau bà Thẩm khỏi hẳn, bà Vu từ giã ra về, bà Thẩm khóc nói:

- Sợ chị đi thì em chết mất thôi.

Bà Vu bèn bàn với sinh chia gia tài cho Nhị Thành ra ở riêng, Nhị Thành nói với Tàng Cô, Tàng Cô không vui nói nhiều lời xúc phạm tới anh, động chạm tới cả bà Vu. Sinh bèn tình nguyện đưa hết những ruộng tốt cho Nhị Thành, Tàng Cô mới vui vẻ, lập tờ chia gia tài xong bà Vu mới về. Hôm sau bà Vu lấy xe tới đón bà Thẩm, bà Thẩm vào tới nhà trước hết xin gặp con dâu bà Vu, hết sức ca ngợi nàng hiền.

Bà Vu nói:

- Đàn bà có trăm việc hay cũng đâu tránh khỏi có một điều dở. Ta phải rộng rãi bao dung, chứ như em thì cho dù có con dâu như ta e cũng chưa chắc đã nhờ vả gì được.

Thẩm nói:

- Ồ! Oan cho em lắm, chị bảo em là súc vật gỗ đá hay sao? Em cũng có miệng có mũi, há lại ngửi mùi thơm mà không biết sao?

Bà Vu hỏi:

- Như San Hô bị đuổi, không biết nghĩ tới em sẽ nói gì?

Bà Thẩm đáp:

- Chỉ có mắng chửi thôi!

Bà Vu nói:

- Nếu em tu tỉnh thì chẳng có chỗ nào để mắng chửi, mà cũng chẳng có chỗ nào ghét để chửi mắng.

Bà Thẩm nói:

- Ai cũng có lúc lỗi lầm, chỉ có điều cô ta không thể hiền, nên em biết là cô ta sẽ chửi mắng.

Bà Vu nói:

- Người đáng oán lại không oán thì đức thế nào đủ biết rồi, người đáng đuổi lại không đuổi thì tài thế nào đủ biết rồi. Những thức ăn hôm trước đem qua cung dưỡng vốn không phải của con dâu chị gởi đâu, mà là của con dâu em gởi đấy.

Bà Thẩm giật mình hỏi:

- Chị nói gì?

Bà Vu đáp:

- San Hô tới đây lâu rồi, những thức ăn gởi cho em là của nàng thức đêm dệt thuê lấy tiền mua đấy.

Bà Thẩm nghe thế nước mắt ròng ròng, nói:

- Em còn mặt mũi nào nhìn con dâu nữa?

Bà Vu bèn gọi San Hô, San Hô rơi lệ bước ra, lạy rạp xuống đất, mẹ đau xót hổ thẹn tự vả vào mặt mình, bà Vu khuyên mãi mới thôi, từ đó lại là mẹ chồng nàng dâu như trước. Hơn mười hôm sau cùng trở về, trong nhà chỉ còn vài mẫu ruộng xấu không đủ ăn, chỉ trông mong vào việc sinh học hành thi dỗ, San Hô thì may thuê dệt mướn. Nhị Thành có tiếng khá giả nhưng anh không qua nhờ vả, em cũng không ngó ngàng gì tới, Tàng Cô vì chị dâu từng bị đuổi nên khinh bỉ, San Hô cũng ghét cô ta đanh đá nên không đếm xỉa tới. Anh em ở sát vách nhau, Tàng Cô thường chửi chó mắng mèo, cả nhà đều bịt tai không nghe, Tàng Cô không cớ gì để gây sự bèn chửi chồng đánh tỳ nữ. Một hôm đứa tỳ nữ treo cổ tự tử, cha cô ta kiện Tàng Cô. Nhị Thành lên hầu quan thay vợ bị đánh đập rất nặng nhưng Tàng Cô cũng bị bắt, sinh chạy chọt lo lót khắp trên dưới cũng không được tha. Tàng Cô bị đánh vào mười ngón tay tróc hết cả thịt, quan lại tham lam đòi hỏi rất nhiều. Nhị Thành cầm cố ruộng vườn đem đủ số tới vợ mới được tha về. Nhưng chủ nợ cứ hàng ngày tới đòi, bất đắc dĩ phải bán hết ruộng tốt cho ông Nhiệm trong làng.

Ông Nhiệm vì thấy một nửa số ruộng ấy là của Đại Thành nhường cho, mời sinh tới ký tên vào văn tự bán ruộng. Sinh tới nơi, ông Nhiệm chợt nói:

- Ta là An Hiếu liêm đây, Nhiệm mỗ là ai mà dám mua cơ nghiệp của ta?

Rồi nhìn sinh nói:

- Âm ty cảm động vì vợ chồng con hiếu thảo nên sai ta tạm tới gặp mặt một lần.

Sinh rơi lệ nói:

- Cha có thiêng xin cứu giúp cho em con.

An đáp:

- Thứ con hư dâu dữ có gì đáng tiếc, về nhà rồi mau lo tiền bạc tới chuộc lại cơ nghiệp của ta.

Sinh nói:

- Mẹ con con chỉ kiếm được đủ sống, lấy đâu ra nhiều tiền như thế?

An nói:

- Dưới gốc cây tử vi có vàng chôn, cứ lấy mà dùng.

Sinh định hỏi lại thì ông Nhiệm im bặt, lát sau tỉnh lại cũng không biết mình vừa nói gì.

Sinh về kể lại với mẹ, cũng chưa tin lắm thì Tàng Cô đã dắt mấy người gia nhân ra đào vàng, sâu xuống bốn năm thước mà chỉ thấy có gạch ngói, không có chút gì gọi là vàng bạc, thất vọng trở về. Sinh nghe nói Tàng Cô đào vàng liền dặn mẹ và vợ đừng ra nhìn, sau nghe nói không tìm được gì, mẹ sinh lén tới xem chỉ thấy gạch ngói trộn lẫn với đất cát bèn về. Kế San Hô tới thì thấy dưới hầm đất đều là bạc nén trắng xóa, gọi sinh tới xem thì quả đúng thế. Sinh nghĩ đây là của ông cha để lại, không nỡ giấu giếm bèn gọi Nhị Thành tới chia đôi, mang lên mấy lần mới hết, phần ai người ấy bỏ túi mang về. Nhị Thành cùng Tàng Cô xem lại, mở túi ra chỉ thấy toàn là gạch ngói cả sợ. Tàng Cô ngờ Nhị Thành bị anh lừa liền bảo Nhị Thành tới nhà anh dò xét, thì thấy anh đang bày vàng bạc ra giường, mẹ con đang vui vẻ chúc mừng nhau.

Nhị Thành vào kể lại với anh, sinh cũng sợ nhưng trong lòng rất thương hại, bèn tặng hết số vàng bạc của mình. Nhị Thành mừng quá mang đi trả nợ, rất biết ơn anh. Tàng Cô nói:

- Xem đó đủ biết là anh gian trá, nếu không phải là hối hận thì đời thuở nào có ai đem phần mình được chia mà nhường hết cho người khác không?

Nhị Thành nửa tin nửa ngờ. Hôm sau chủ nợ sai người tới nói:

- Những tiền trả nợ đều là bạc giả, ta sẽ thưa lên quan.

Hai vợ chồng đều tái mặt. Tàng Cô nói:

- Thế nào nào? Ta đã nói là anh không hiền đến như thế, làm thế là để giết thẳng đấy.

Nhị Thành sợ hãi tới năn nỉ chủ nợ, chủ nợ căm tức không chịu, Nhị Thành bèn gán văn tự ruộng mới lấy đủ số tiền đã trả nợ về.

Nhìn kỹ thấy hai nén bạc bị chặt ra, chỉ có một lớp bạc thật mỏng như chiếc lá bao bên ngoài, còn bên trong đều là đồng cả. Tàng Cô bèn bàn với Nhị Thành giữ lại hai nén bị chặt còn bao nhiêu đem trả cho anh xem thử ra sao, lại dặn nói rằng:

- Mấy lần được anh nhường nhịn thật lấy làm bất nhẫn, xin giữ lại hai nén để nhớ ơn, còn những ruộng đất đã cầm đó cũng là của anh, em không quen làm nhiều ruộng, những cơ nghiệp đã bỏ đi, có chuộc lại hay không là quyền ở anh.

Sinh không biết cứ cố nhường, Nhị Thành nhất quyết từ chối. Sinh bèn nhận lại bạc, cân lên thì thiếu hơn năm lượng, bèn bảo San Hô bán nữ trang bù vào cho đủ số rồi đem tới trả nợ. Chủ nợ nghi cũng là số bạc cũ, lấy dao chặt ra xem thì sắc bạc trong ngoài đều như một không khác nhau mảy may bèn nhận bạc, trả lại văn tự ruộng đất cho sinh. Nhị Thành trả bạc cho anh xong cho rằng thế nào cũng có chuyện lôi thôi, kế nghe sinh đã chuộc lại được cả ruộng vườn cũ rồi, rất lấy làm lạ. Tàng Cô nghi là lúc đào lên anh đã giấu hết bạc thật đi, tức giận qua nhà anh gây gổ chửi mắng, lúc ấy sinh mới rõ vì sao Nhị Thành trả lại tiền bạc.

San Hô bước ra cười nói:

- Ruộng vườn còn cả đây, sao lại giận dữ.

Rồi bảo sinh đem văn tự ruộng đất ra đưa Tàng Cô. Một đêm Nhị Thành mơ thấy cha về trách mắng, nói:

- Ngươi bất hiếu bất đễ, đã sắp đến ngày chết, một tấc đất cũng không có được lại còn tranh chiếm ruộng vườn, định làm gì hả?

Tỉnh dậy nói với Tàng Cô, muốn đem ruộng đất trả lại anh, Tàng Cô chế nhạo là ngu. Lúc ấy Nhị Thành có hai con trai, đứa lớn bảy tuổi, đứa nhỏ ba tuổi, không bao lâu thì đứa lớn mắc bệnh đậu chết. Tàng Cô sợ bảo Nhị Thành đưa lại văn tự ruộng đất cho anh, nhưng nói mấy lần sinh vẫn không nhận. Không bao lâu đứa con nhỏ lại chết. Tàng Cô càng sợ, tự mang văn tự ruộng đất tới đưa chị dâu, lúc ấy sắp hết mùa xuân, ruộng bỏ hoang không cày, sinh bất đắc dĩ phải ra gieo cấy.

Tàng Cô từ đó sửa đổi tính nết, sáng thăm tối viếng mẹ như con hiếu, cũng hết sức kính trọng chị dâu. Chưa được nửa năm mẹ bệnh chết, Tàng Cô khóc lóc rất đau xót, bỏ cả ăn uống, nói với người ta rằng:

- Cha mẹ chồng chết khiến ta không được hầu hạ, đó là trời không cho ta được chuộc lỗi đấy.

Sau sinh nở mười lần đều không nuôi được, bèn nuôi con anh làm con mình. Vợ chồng sinh đều sống lâu, sinh được ba con trai, hai người thi đỗ Tiến sĩ, người ta thường nói rằng đó là trời báo đáp lòng hiếu hữu vậy.

____________________________________

CHƯƠNG 67: THẦN NGŨ THÔNG

Lưu Tục Tương Truyền Phụng Quỉ Hùng
Công Nhiên Tang Bộc Tứ Đâm Phong
Vạn Sinh Đao Tiếu Thang Công Tấu
Nhất Dạng Uy Linh Nhiếp Ngũ Thông

Dịch:

Thờ Quỷ Lưu Truyền Khéo Viễn Vông
Công Khai Dâu Bộc Phạm Thuần Phong
Vạn Sinh Chém Bắn Thang Công Tấu
Uy Lực Đều Hay Trị Ngũ Thông

Phương nam có dâm thần Ngũ thông cũng như phương bắc có hồ vậy. Nhưng ở phương bắc bị hồ ám thì còn tìm đủ cách khu trừ, chứ ở vùng Giang Tô Chiết Giang đàn bà con gái xinh đẹp trong dân gian mà bị thần Ngũ thông hành dâm thì cha mẹ anh em không ai dám ho he, gây hại còn dữ hơn cả hồ.

Có Thiệu Hồ là nhà buôn mở cửa hiệu ở huyện Ngô (tỉnh Giang Tô), vợ là Diêm thị rất xinh đẹp. Một hôm có người đàn ông nghênh ngang từ ngoài vào, vỗ kiếm trừng mắt nhìn quanh, vú già tớ gái trong nhà chạy sạch. Diêm muốn chạy ra, người ấy chặn lại nói:

- Đừng sợ, ta là Tứ lang trong Ngũ thông đây. Ta yêu nàng, không làm hại nàng đâu.

Rồi ôm ngang lưng Diêm thị nhấc lên như bế trẻ con đặt lên giường, giải quần nàng tự tuột ra, y bèn cưỡng hiếp, nhưng dương vật to cứng nàng không chịu nổi, lúc mê man đau đớn kêu rên như sắp chết. Tứ lang cũng thương xót không làm hết sức, kế bước xuống giường nói:

- Năm ngày nữa ta sẽ lại tới!

Rồi đi.

Hồ bày cửa hiệu ngoài cổng, đêm ấy đám tớ gái chạy tới thưa, Hồ biết là thần Ngũ thông không dám nói gì. Đến sáng thấy vợ mỏi mệt không dậy nổi, trong lòng rất nhục nhã xấu hổ, dặn người nhà không được kể rộng ra. Người đàn bà qua ba bốn ngày mới khỏe lại, nhưng sợ thần Ngũ thông lại tới, đám vú già tớ gái không dám ngủ đêm trong phòng, tránh hết ra nhà ngoài, chỉ có người đàn bà buồn rầu ngồi trước đèn chờ. Không bao lâu, Tứ lang dắt hai người nữa tới, đều là thiếu niên ôn nhã, có tên tiểu đồng bày rượu thịt ra cùng ăn uống với người đàn bà. Người đàn bà xấu hổ cúi đầu, họ ép uống rượu cũng không uống, trong lòng nơm nớp sợ họ thay phiên hành dâm thì hết sống. Ba người uống rượu vui vẻ với nhau, người gọi là đại ca người gọi là tam đệ. Uống đến khuya, hai người khách đứng lên nói:

- Hôm nay Tứ lang được mỹ nhân nên mời, cũng nên gọi Nhị lang Ngũ lang tới uống rượu mừng.

Rồi từ biệt đi.

Tứ lang kéo người đàn bà vào màn, nàng khóc lóc năn nỉ, Tứ lang cứ ép giao hoan, nàng máu me đầm đìa ngất đi không biết gì nữa, Tứ lang mới đi. Người đàn bà nằm vật ra trên giường khôn xiết căm hờn xấu hổ, nghĩ định tự tử nhưng treo cổ thì dây tự đứt, mấy lần đều như thế, khổ không sao chết được. May mà Tứ lang cũng không tới thường, cứ chờ khoảng nàng đỡ bệnh mới lại tới một lần, cứ thế hơn ba tháng, cả nhà không yên.

Có Vạn sinh ở Cối Kê (huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang) là em họ ngoại của Thiệu, dũng mãnh thiện xạ, một hôm tới thăm Thiệu. Lúc ấy trời đã tối, Thiệu vì nhà khách đã cho gia nhân ở bèn đưa Vạn vào ngủ nhà trong. Vạn nằm hồi lâu không ngủ, nghe trong sân có tiếng chân người bèn núp cạnh cửa sổ nhìn ra, thấy một người đàn ông bước vào phòng vợ Thiệu, lấy làm ngờ vực xách đao lẻn theo. Thấy người ấy ngồi sánh vai với Diêm thị, trên bàn thì đầy rượu thịt liền nổi giận sấn vào, người đàn ông giật mình vội đứng dậy nắm lấy kiếm thì đã bị chém toác đầu ngã xuống, nhìn ra thì là một con ngựa con to như con lừa.

Vạn kinh ngạc hỏi Diêm thị, người đàn bà kể lại mọi chuyện rồi nói:

- Các thần sắp tới, làm sao bây giờ?

Vạn xua tay ra hiệu đừng lên tiếng rồi tắt đèn cầm cung tên nằm chờ trong bóng tối. Không bao lâu có bốn năm người trên không đáp xuống, Vạn bắn mau một phát, người đi đầu trúng tên chết tươi. Ba người kia tức giận gầm thét, tuốt kiếm xông vào tìm kẻ bắn tên, Vạn cầm đao núp sau cánh cửa im lặng không động đậy, một người bước vào bị Vạn chém trúng đầu cũng lăn ra chết. Vạn đứng im chỗ cũ chờ hồi lâu thấy im ắng bèn bước ra gọi Thiệu dậy kể chuyện. Thiệu cả kinh cùng đốt đuốc vào xem thì thấy một con ngựa và hai con heo chết trong phòng. Cả nhà đều mừng rỡ, nhưng sợ hai con quái còn sống tới trả thù bèn giữ Vạn ở lại. Nấu nướng thịt heo thịt ngựa đem lên mời, thấy ngon ngọt khác hẳn thịt heo ngựa thường, từ đó Vạn sinh lừng lẫy tiếng tăm.

Vạn ở lại hơn tháng, không thấy đám quái tới nữa bèn từ giã Thiệu, sắp lên đường thì có nhà buôn Mỗ tới mời. Trước là Mỗ có con gái chưa lấy chồng, chợt Ngũ thông giữa ban ngày hiện ra, là một người đàn ông đẹp trai hơn hai mươi tuổi, nói sẽ cưới cô gái làm vợ, đưa một trăm lượng vàng làm sính lễ rồi hẹn ngày cưới. Mỗ tính lại sắp tới ngày hẹn, cả nhà lo sợ, nghe danh Vạn sinh bèn nài nỉ mời bằng được về nhà, nhưng sợ Vạn từ chối nên giấu không nói thật, thết tiệc xong mới cho con gái ăn mặc đẹp đẽ ra lạy chào. Vạn thấy cô gái khoảng mười sáu mười bảy tuổi, dung mạo xinh đẹp kinh ngạc không hiểu là có ý gì, vội đứng lên chào, Mỗ kéo ngồi xuống kể thật mọi việc. Vạn nghe thấy cả kinh, nhưng bình sinh ý khí hào hùng nên cũng không từ chối.

Đến ngày cưới, Mỗ cũng hoa giăng dây lụa ngũ sắc ngoài cổng, bảo Vạn ngồi trong phòng. Đến trưa vẫn không thấy Ngũ thông tới, Vạn mừng rỡ nghĩ thầm chắc tân lang là trong số đã bị mình giết. Phút chốc chợt thấy trước thềm có vật như con chim sa xuống rồi một thiếu niên ăn mặc đẹp đẽ bước vào, nhìn thấy Vạn quay người bỏ chạy. Vạn đuổi ra tới ngoài, chỉ thấy một làn khí đen sắp bay lên, vội rút đao nhảy lên chém theo, chặt đứt một chân, thiếu niên kêu gào bay mất. Cúi nhìn thì khúc chân là một cái móng lớn to bằng bàn tay, không biết là con gì, tìm theo vết máu thì thấy nhảy xuống sông. Mỗ cả mừng, lại nghe nói Vạn không có vợ, ngay đêm ấy chuẩn bị giường chiếu cho làm lễ hợp cẩn với cô gái. Từ đó những người vốn sợ Ngũ thông đều mời Vạn tới nhà mình ngủ một đêm. Được hơn năm Vạn mới đưa vợ về nhà, từ đó Ngô Trung chỉ còn một trong Ngũ thông, không dám công nhiên tác quái nữa.

__________________________________

CHƯƠNG 68: NGŨ THÔNG NHỊ

NGŨ THÔNG (2)

Ngũ Thông Thần Chỉ Nhất Thông Tồn
Tỳ Nữ Nam Lai Diệu Liễm Hồn
Tuyệt Tự A Thùy Ma Giới Thể
Cánh Tòng Đâm Tịch Đoạn Dâm Căn

Dịch:

Năm Thông Nay Chỉ Một Thông Còn
Cô Gái Nam Qua Khéo Hú Hồn
Lầm Tưởng Rằng Ai Quen Rở Thói
Trừng Dâm Đoan Đích Phải Trừ Côn

Kim sinh tự Vương Tôn, người Tô Châu (tỉnh Giang Tô). Tới đất Hoài (tỉnh Giang Tô) dạy học, ở trong vườn một vị thân sĩ lầu gác không nhiều nhưng cây cối rậm rạp. Hàng đêm đến khuya, khi bọn tiểu đồng đầy tớ đã ngủ hết thường một mình ngồi trước đèn, trong lòng buồn bã. Một đêm vừa hết canh hai chợt nghe có người lấy ngón tay búng cửa sổ, sinh vội lên tiếng hỏi, bên ngoài nói là xin lửa, giọng nói như đứa tiểu đồng. Sinh mở cửa cho vào thì là một người đẹp khoảng mười sáu tuổi, có một tỳ nữ theo sau. Sinh ngờ là yêu quái, gặng hỏi cặn kẽ, cô gái nói:

- Thiếp thấy chàng là kẻ sĩ phong nhã mà cô tịch đáng thương nên không ngại sương gió tới định cùng vui vầy đêm nay, chứ sợ nói lai lịch ra thì thiếp không dám tới mà chàng cũng không dám chứa chấp đâu.

Sinh lại nghĩ là con gái hư hỏng trong làng, lấy cớ sợ mang tiếng để từ tạ. Cô gái đưa mắt liếc, sinh thấy thần trí mê man, tâm thần điên đảo không thể tự chủ được nữa. Người tỳ nữ biết, bèn nói:

- Cô Hà, em đi đây!

Cô gái gật đầu, kế mắng:

- Đi thì cứ đi, còn Hà Hà Vân Vân gì?

Người tỳ nữ đi rồi, nàng mới cười nói:

- Gặp lúc nhà không có ai mới dắt nó tới đây, ngu ngốc như thế đấy, nói lộ ra cho chàng biết tên tự của thiếp.

Sinh nói:

- Nàng tinh tế sâu sắc quá làm ta sợ có tai họa.

Nàng nói:

- Về sau sẽ biết thôi, nhưng thiếp cam đoan là không làm gì có hại cho chàng đâu, đừng lo.

Kế nàng lên giường tháo gỡ đồ trang sức, sinh thấy trên tay nàng có đeo một cái xuyến bằng vàng tía khảm hai viên ngọc minh châu, tắt đèn vẫn lóng lánh chiếu sáng cả phòng. Sinh càng sợ hãi, không đoán được là nàng từ đâu tới. Vừa giao hoan xong thì người tỳ nữ tới gõ cửa, cô gái trở dậy, lấy chiếc xuyến soi đường vào trong rặng cây um tùm đi mất.

Từ đó đêm nào cũng tới, có lần sinh định lén đi theo, cô gái như đã biết bèn che ánh sáng, cây cối rậm rạp tối om giơ bàn tay lên cũng không nhìn thấy, sinh đành quay về. Một hôm sinh đi Hà Bắc, dây mũ bị đứt, gió thổi suýt rơi, ngồi trên ngựa cứ phải lấy tay giữ. Tới sông lên ngồi trên thuyền, mũ bị gió thổi rơi xuống sông rồi bị nước cuốn đi, nghĩ là mất rồi. Đến khi lên bờ thì gặp con gió lớn thổi chiếc mũ bay tới, chao chao trên không rồi rơi xuống, giơ tay chụp lấy thì thấy dây mũ đã liền lại, lấy làm lạ.

Khi trở về kể lại với cô gái, nàng không nói gì mà chỉ cười khẽ. Sinh ngờ là do nàng làm bèn nói:

- Nếu quả nàng là thần thì xin nói rõ cho ta yên lòng.

Cô gái nói:

- Chàng lúc vắng vẻ tịch mịch lại được kẻ si tình giải khuây cho, thiếp tự nghĩ như thế là không xấu. Giả như thiếp làm được như thế thì cũng là yêu thương nhau đó thôi, căn vặn làm gì muốn tuyệt tình sao?

Sinh không dám nói nữa.

Trước Sinh có nuôi đứa cháu gái, đã đi lấy chồng, bị Ngũ thông quấy phá, rất lo lắng nhưng chưa từng nới với ai, vì quen biết thân mật với cô gái đã lâu nên kể ra không giấu giếm gì. Nàng nói:

- Những loại ấy thì cha thiếp có thể diệt trừ được, nhưng làm sao thiếp dám đem việc riêng của người tình mà kể với cha.

Sinh năn nỉ xin bày cách cho, nàng ngẫm nghĩ rồi nói:

- Loại ấy cũng dễ trừ, nhưng phải đích thân thiếp đi, mà bọn ấy đều là đầy tớ nhà thiếp, nếu chỉ để chúng chạm một ngón tay vào người thôi thì nước Tây Giang cũng không rửa hết nhục.

Sinh nài nỉ mãi, nàng nói:

- Để thiếp tính cho!

Đêm sau nàng tới nói:

- Thiếp đã vì chàng sai đứa tỳ nữ xuống nam rồi, nhưng nó yếu ớt, sợ không giết được chúng thôi.

Đêm sau đang ngủ thì đứa tỳ nữ tới gọi, Sinh vội dậy mở cửa cho vào. Cô gái hỏi công việc thế nào, đứa tỳ nữ đáp:

- Con không đủ sức bắt sống, nên đã thiến nó rồi.

Nàng cười hỏi đầu đuôi, đứa tỳ nữ kể:

- Ban đầu con tưởng là ở nhà lang quân đây, nhưng tới nơi mới biết là không phải. Tới nhà chồng nàng thì đã lên đèn, vào trong thấy nàng ngồi trước đèn, gục xuống bàn như đang ngủ, con bèn thu hồn nàng cho vào vò úp lại. Giây lát con quái tới, vừa vào phòng thì lùi ra ngay, quát: “Sao lại có người lạ nào thế?” nhưng nhìn kỹ không thấy ai khác lại bước vào. Con làm như đang mê man, y cởi quần áo ra leo lên, lại giật mình nói: “Sao lại có binh khí thế này.” Ý con không muốn cầm vào vật bẩn dơ tay, nhưng sợ chậm trễ sinh biến bèn chụp lấy thiến luôn. Con quái đau đớn kêu la bỏ chạy, con trở dậy mở cái vò lên, nàng tỉnh dậy rồi thì con đi.

Sinh mừng rỡ tạ ơn, cô gái cùng đứa tỳ nữ ra về.

Hơn nửa năm sau không thấy nàng tới, Sinh đã tuyệt vọng. Cuối năm Sinh nghỉ dạy dịnh về quê, cô gái chợt tới. Sinh mừng rỡ ra đón, nói:

- Lâu quá nàng không tới, ta nghĩ chắc đã phạm lỗi gì, nay nàng không dứt tình chứ?

Nàng đáp:

- Gắn bó với nhau cả năm mà chia tay nhau không có một lời thì cũng chưa trọn vẹn. Nghe nói chàng thôi dạy học nên lén tới nói lời từ biệt.

Sinh xin nàng cùng về quê với mình, nàng than:

- Khó nói lắm, hôm nay chia tay mà lòng không nỡ quên tình. Thiếp là con gái của Kim Long đại vương, vốn cùng chàng có túc duyên nên tới gặp gỡ. Không ngờ sai đứa tỳ nữ xuống Giang Nam làm giang hồ đồn ầm lên rằng thiếp vì chàng mà thiến Ngũ thông, cha thiếp nghe được cho là quá nhục nhã, đã định ban tội chết. May mà đứa tỳ nữ đứng ra nhận tội, ông mới hơi nguôi giận, phạt đánh nó một trăm gậy. Thiếp đi đâu nửa bước cũng có bà vú đi theo, chỉ nhân lúc sơ hở tới được đây một lần chứ không thể trọn duyên cầm sắt, biết làm sao được.

Nói xong từ biệt, Sinh kéo lại rơi nước mắt, nàng nói:

- Chàng đừng làm thế, ba mươi năm sau sẽ lại sum họp mà.

Sinh nói:

- Ta nay ba mươi tuổi, ba mươi năm nữa đã là một ông già tóc bạc, còn mặt mũi nào gặp lại nhau?

Cô gái nói:

- Không phải thế. Ở Long cung không có người già tóc bạc, mà người đời thọ hay yểu không phải ở chỗ dung mạo, song nếu chàng muốn giữ dung mạo cho không già là chuyện rất dễ.

Kế viết một phương thuốc lên bìa quyển sách trên bàn rồi đi. Sinh về quê, cháu gái kể lại chuyện lạ, nói:

- Tối đến mơ thấy một người tới bắt bỏ vào vò, tỉnh dậy thấy máu đầm đìa cả chăn nệm, mà con quái tuyệt tích luôn.

Sinh nói:

- Đó là do ta cầu đảo Hà Bá đấy!

Mọi người mới rõ.

Về Sau sinh sáu mươi tuổi mà diện mạo vẫn như người ba mươi. Một hôm qua sông, nhìn thấy xa xa phía thượng lưu có chiếc lá sen to như chiếc chiếu trôi xuống, một người đẹp ngồi ở trên, tới gần thì là cô gái thần liền nhảy qua, người theo chiếc lá sen nhỏ dần lại, khi còn bằng đồng tiền thì biến mất. Chuyện này và chuyện Thiệu Hồ đều xảy ra thời Minh mạt, không biết chuyện nào trước chuyện nào sau. Nếu chuyện này xảy ra sau khi Vạn sinh dụng võ thì vùng Ngô Hạ chỉ còn có nửa tên Ngũ thông, chắc không đủ để tác quái làm hại nữa.

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.biz